TỔNG HỢP NỘI DUNG TRẢ LỜI MỘT SỐ Ý KIẾN KIẾN NGHỊ CỦA CỬ TRI TRƯỚC KỲ HỌP THỨ 3, QUỐC HỘI KHÓA XV

Thứ sáu - 29/07/2022 15:09
(Theo Báo cáo số 25/BC- ĐĐBQH ngày 12/5/2022 của Đoàn ĐBQH tỉnh)
Câu 1: Hiện nay, mức thuế suất áp dụng đối với thuốc lá điếu, xì gà và các chế phẩm khác từ cây thuốc lá, được quy định tại khoản 4 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt là 75%, còn thấp, chưa hạn chế được tỷ lệ người hút thuốc lá. Cử tri kiến nghị Quốc hội xem xét, sửa đổi, điều chỉnh nâng mức thuế suất đối với thuốc lá điếu và chế phẩm này cao hơn 75%, để hạn chế lượng người tiêu dùng sản phẩm không có lợi cho sức khỏe cộng đồng (Kiến nghị tại buổi tiếp xúc với UBMTTQVN tỉnh và các tổ chức thành viên).
Nội dung trả lời tại Văn bản số 5687/BTC-NSNN ngày 15/6/2022 của Bộ Tài chính như sau:
Mặt hàng thuốc lá điếu, xì gà... là những mặt hàng khi sử dụng gây tác hại xấu đến sức khỏe, cần hạn chế tiêu dùng. Theo đó, tại Luật thuế tiêu thụ đặc biệt đã quy định: “Thuốc lá điếu, xì gà và chế phẩm khác từ cây thuốc lá dùng để hút, hút, nhai, ngửi, ngậm” áp dụng mức thuế suất 75%. Đây là mức thuế suất cao nhất trong nhóm hàng hóa có hại cho sức khỏe cần hạn chế tiêu dùng quy định tại Luật thuế tiêu thụ đặc biệt.
Tại Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành trung ương Đảng về tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới cũng đã đưa ra nhiệm vụ: “Tăng thuế tiêu thụ đặc biệt đối với các hàng hoá có hại cho sức khoẻ như đồ uống có cồn, có ga, thuốc lá để hạn chế tiêu dùng.”
Ngày 16/12/2021, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 2114/QĐ-TTg về Kế hoạch thực hiện Kết luận số 19-KL/TW ngày 14/10/2021 của Bộ Chính trị và Đề án định hướng Chương trình xây dựng pháp luật nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV, trong đó, đã giao Bộ Tài chính nghiên cứu, rà soát Luật thuế tiêu thụ đặc biệt để báo cáo Chính phủ, báo cáo Ủy ban thường vụ Quốc hội. Ngày 23/4/2022, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 508/QĐ-TTg về việc phê duyệt Chiến lược cải cách hệ thống thuế đến năm 2030. Tại Chiến lược này cũng đã đề ra định hướng xây dựng lộ trình điều chỉnh tăng thuế đối với các mặt hàng thuốc lá, bia, rượu để hạn chế sản xuất, tiêu dùng và thực hiện các cam kết quốc tế.
Hiện nay, Bộ Tài chính đang thực hiện nghiên cứu, rà soát, đánh giá các luật thuế, trong đó có Luật thuế tiêu thụ đặc biệt để báo cáo Chính phủ, Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét trình Quốc hội sửa đổi, bổ sung vào giai đoạn 2023-2025 đảm bảo phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của Việt Nam, tính thống nhất của hệ thống chính sách thuế và phù hợp với Chiến lược cải cách hệ thống thuế đến năm 2030 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 508/QĐ-TTg ngày 23/4/2022, qua đó góp phần bảo vệ sức khỏe nhân dân theo các nhiệm vụ được Đảng, Chính phủ đề ra.
Câu 2: Cử tri cho rằng mức giảm trừ gia cảnh cho bản thân người nộp thuế là 11 triệu đồng/tháng và cho mỗi người phụ thuộc là 4,4 triệu đồng/tháng hiện không còn phù hợp với giá cả thực tế và chi phí cho nhu cầu cuộc sống. Cử tri kiến nghị Quốc hội xem xét, sửa đổi Luật Thuế thu nhập cá nhân theo hướng nâng mức giảm trừ gia cảnh cho bản thân người nộp thuế và người phụ thuộc phù hợp với thực tế hiện nay (Kiến nghị tại buổi tiếp xúc với UBMTTQVN tỉnh và các tổ chức thành viên).
Nội dung trả lời tại Văn bản số 5687/BTC-NSNN ngày 15/6/2022 VÀ Văn bản số 7091/BTC-CST ngày 21/7/2022 của Bộ Tài chính như sau:
Theo quy định của Luật thuế thu nhập cá nhân, cá nhân được trừ các khoản bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp đối với một số ngành nghề phải tham gia bảo hiểm bắt buộc, trừ đi mức giảm trừ gia cảnh, các khoản đóng góp từ thiện, nhân đạo, các khoản phụ cấp, trợ cấp theo quy định... số còn lại mới là thu nhập làm căn cứ tính thuế thu nhập cá nhân.
Ngày 02/6/2020, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã thông qua Nghị quyết số 954/2020/NQ-UBTVQH14 về điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh của thuế thu nhập cá nhân. Theo đó, điều chỉnh nâng mức giảm trừ cho người nộp thuế từ 9 triệu đồng/tháng lên 11 triệu đồng/tháng, cho mỗi người phụ thuộc từ 3,6 triệu đồng/tháng lên 4,4 triệu đồng/tháng và áp dụng ngay từ kỳ tính thuế năm 2020. Việc điều chỉnh nâng mức giảm trừ gia cảnh của thuế thu nhập cá nhân đã góp phần giảm bớt nghĩa vụ cho người nộp thuế, số thuế phải nộp được giảm cho mọi đối tượng đang nộp thuế thu nhập cá nhân.
Với mức giảm trừ cho bản thân người nộp thuế hiện nay là 11 triệu đồng/tháng và cho mỗi người phụ thuộc là 4,4 triệu đồng/tháng thì người có thu nhập từ tiền lương, tiền công ở mức 17 triệu đồng/tháng (nếu có 1 người phụ thuộc) hay mức 22 triệu đồng/tháng (nếu có 2 người phụ thuộc) sau khi trừ các khoản bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp...thì cũng chưa phải nộp thuế thu nhập cá nhân. Đối với người có thu nhập 30 triệu đồng/tháng thì sau khi nộp bảo hiểm bắt buộc và giảm trừ cho 2 người phụ thuộc thì mức thuế thu nhập cá nhân phải nộp là 460 nghìn đồng/tháng (số tiền thuế thu nhập cá nhân chiếm khoảng 1,53% thu nhập của cá nhân).
Quy định về giảm trừ trước khi tính thuế đảm bảo nguyên tắc cá nhân cần phải có một mức thu nhập nhất định nhằm đáp ứng được nhu cầu thiết yếu của cuộc sống như: ăn, ở, đi lại, học tập, khám chữa bệnh..., vì thế thu nhập trên ngưỡng này mới phải nộp thuế. Việc áp dụng các khoản giảm trừ còn hướng tới mục tiêu loại trừ các đối tượng có thu nhập thấp ra khỏi diện phải nộp thuế thu nhập cá nhân. Mức giảm trừ gia cảnh cho người nộp thuế, người phụ thuộc của người nộp thuế theo quy định của pháp luật về thuế thu nhập cá nhân là mức cụ thể theo mặt bằng chung của xã hội, không thể quy định riêng cho các trường hợp cá biệt. Cá nhân có khó khăn do thiên tai, hoả hoạn, tai nạn, bệnh hiểm nghèo thì Luật thuế thu nhập cá nhân đã có quy định giảm thuế cho các trường hợp này... Mức giảm trừ gia cảnh hiện nay vẫn đảm bảo cao hơn thu nhập bình quân đầu người, mức lương tối thiểu vùng hay mức sống trung bình của cả nước cũng như tại tỉnh Bình Định.
Việc thực hiện chính sách thuế thu nhập cá nhân có vai trò rất quan trọng để triển khai chính sách phân phối lại. Cùng với các nguồn thu khác, nguồn thu từ thuế thu nhập cá nhân đã góp phần đáp ứng rất nhiều các nhu cầu chỉ cho đầu tư phát triển, an ninh quốc phòng, đảm bảo an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo. Hiện nay, thực hiện nhiệm vụ được Thủ tướng Chính phủ giao tại Quyết định số 2114/QĐ-TTg ngày 16/12/2021 ban hành Kế hoạch thực hiện Kết luận số 19-KL/TW của Bộ Chính trị và Đề án Định hướng Chương trình xây dựng pháp luật nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV, Bộ Tài chính đang tiến hành rà soát, đánh giá các luật thuế, trong đó có Luật thuế thu nhập cá nhân để báo cáo Chính phủ, báo cáo Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét trình Quốc hội sửa đổi, bổ sung vào thời điểm thích hợp theo Chương trình xây dựng văn bản luật, pháp lệnh của Quốc hội, đảm bảo phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của Việt Nam, cũng như thông lệ quốc tế.
Câu 3: Hiện nay, theo quy định tại khoản 1 Điều 5 Luật Đầu tư công, dự án giải phóng mặt bằng chỉ được tách riêng khi là dự án quan trọng quốc gia do Quốc hội xem xét, quyết định và dự án nhóm A do Thủ tướng Chính phủ và Hội đồng nhân dân cấp tỉnh xem xét, quyết định. Tuy nhiên, thực tế có nhiều dự án có quy mô thuộc nhóm B nhưng việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, giải phóng mặt bằng có tính chất phức tạp hoặc cần phải tách riêng việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, giải phóng mặt bằng để thuận lợi cho công tác chuẩn bị và khi được phân bổ vốn sẽ triển khai thực hiện kịp thời (không bị vướng mặt bằng). Cử tri kiến nghị Quốc hội xem xét, sửa đổi, bổ sung thêm vào khoản 1 Điều 5 Luật Đầu tư công nội dung sau: “dự án nhóm B do Hội đồng nhân dân các cấp xem xét quyết định”, nhằm đẩy nhanh việc giải ngân vốn đầu tư công, tạo điều kiện cho việc triển khai thực hiện thuận lợi, hiệu quả (Kiến nghị tại buổi tiếp xúc với UBMTTQVN tỉnh và các tổ chức thành viên).
Nội dung trả lời tại Văn bản số 5687/BTC-NSNN ngày 15/6/2022 của Bộ Tài chính như sau:
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 5 của Luật đầu tư công: Trường hợp thật sự cần thiết tách riêng việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, giải phóng mặt bằng thành dự án độc lập, đối với dự án quan trọng quốc gia do Quốc hội xem xét, quyết định; đối với dự án nhóm A do Thủ tướng Chính phủ, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh xem xét, quyết định theo thẩm quyền. Việc tách riêng dự án độc lập được thực hiện khi phê duyệt chủ trương đầu tư dự án quan trọng quốc gia, dự án nhóm A.
Thực hiện Nghị quyết số 29/2021/QH15 ngày 28/7/2021 của Quốc hội về việc giao Chính phủ nghiên cứu xây dựng đề án thí điểm tách giải phóng mặt bằng, tái định cư ra khỏi dự án đầu tư; Chính phủ đã có Tờ trình số 520/TTr-CP ngày 15/11/2021 báo cáo Ủy ban thường vụ Quốc hội một số chính sách đặc thủ, trong đó có đề xuất cơ chế tách bồi thường, giải phóng mặt bằng đối với dự án nhóm B, C và một số cơ chế đặc thù khác.
Theo kết luận của Chủ tịch Quốc hội tại Văn bản số 2831/TB-VPQH ngày 27/11/2021 của Văn phòng Quốc hội, nội dung này chưa đủ điều kiện trình Ủy ban thường vụ Quốc hội để xem xét cho ý kiến trình Quốc hội tại kỳ họp bất thường, Quốc hội khóa XV, việc thí điểm (nếu có) chỉ thực hiện ở một số địa phương, dự án cụ thể và có thời gian, thời hạn cụ thể.
Hiện nay Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư tiếp tục nghiên cứu xây dựng cơ chế thí điểm tách dự án giải phóng mặt bằng đối với dự án nhóm B, C tại một số địa phương theo ý kiến chỉ đạo của Chủ tịch Quốc hội. Do vậy, đề nghị Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh làm việc với Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Định để có ý kiến với Bộ Kế hoạch và Đầu tư nghiên cứu, tổng hợp trong quá trình đề xuất chính sách đặc thù, báo cáo cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định; Bộ Tài chính sẽ phối hợp tham gia theo quy định.
Câu 4: Mức lương cơ sở đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang hiện nay quá thấp (1.490.000 đồng/tháng), qua nhiều năm chưa được điều chỉnh tăng, trong khi giá cả thị trường ngày càng tăng cao. Cử tri kiến nghị Chính phủ kiến nghị Quốc hội xem xét, tăng mức lương cơ sở, đảm bảo đời sống, nâng cao chất lượng hiệu quả công tác cho cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang (Kiến nghị của cử tri huyện Tây Sơn).
Nội dung trả lời tại Văn bản số 5687/BTC-NSNN ngày 15/6/2022 của Bộ Tài chính như sau:
Theo quy định tại Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 21/5/2018 của Ban Chấp hành Trung ương tại Hội nghị Trung ương 7 (khóa XII) về cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động trong doanh nghiệp: “Từ năm 2021, áp dụng chế độ tiền lương mới thống nhất đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang trong toàn bộ hệ thống chính trị.”
Theo quy định tại Nghị quyết số 23/2021/QH15 ngày 28/7/2021 của Quốc hội về kế hoạch tài chính quốc gia và vay, trả nợ công 5 năm giai đoạn 2021-2025: “Tập trung nguồn lực để thực hiện cải cách tiền lương từ ngày 01 tháng 7 năm 2022”.
Tuy nhiên, do tác động nghiêm trọng của dịch Covid-19, nên ngân sách chưa cân đối được nguồn để thực hiện chính sách cải cách tiền lương từ ngày 01/7/2022; vì vậy, Chính phủ đã trình và Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 34/2021/QH15 ngày 13/11/2021 về dự toán ngân sách nhà nước năm 2022: "Lùi thời điểm thực hiện cải cách chính sách tiền lương quy định tại khoản 3 Điều 4 của Nghị quyết số 23/2021/QH15 của Quốc hội; ưu tiên điều chỉnh lương hưu cho người nghỉ hưu trước năm 1995”. Như vậy, năm 2022 chưa thực hiện chính sách cải cách tiền lương. Vấn đề này sẽ được các cơ quan liên quan tiếp tục nghiên cứu báo cáo cấp có thẩm quyền trong thời gian tới.
Câu 5: Hiện nay, sản xuất nông nghiệp gặp nhiều khó khăn do chi phí phân bón tăng cao. Để tạo điều kiện hỗ trợ ngành sản xuất phân bón trong nước và giảm bớt khó khăn cho nông dân, cử tri kiến nghị Chính phủ báo cáo Quốc hội sửa đổi Luật số 71/2014/QH13 theo hướng chuyển phân bón từ đối tượng không chịu thuế sang đối tượng chịu thuế VAT với mức thuế suất hợp lý để khấu trừ thuế các nguyên, vật liệu đầu vào và tăng thuế xuất khẩu phân bón; đồng thời, có chính sách khuyến khích sản xuất, sử dụng phân bón hữu cơ (Kiến nghị của cử tri xã Ân Đức (huyện Hoài Ân), huyện Tây Sơn, xã Mỹ Trinh (huyện Phù Mỹ) và tại buổi tiếp xúc với UBMTTQVN tỉnh).
Nội dung trả lời tại Văn bản số 5687/BTC-NSNN ngày 15/6/2022 và Văn bản số 6566/BTC-CST ngày 08/7/2022 của Bộ Tài chính như sau:
- Về chính sách thuế giá trị gia tăng:
Theo khoản 3a Điều 5 Luật thuế GTGT hiện hành thì phân bón thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT.
Thực hiện quy định trên, các doanh nghiệp sản xuất phân bón gặp khó khăn do không được kê khai, khấu trừ thuế GTGT đầu vào của hàng hóa, dịch vụ (bao gồm cả hoạt động đầu tư, mua sắm tài sản cố định phục vụ cho hoạt động sản xuất phân bón mà phải tính vào chi phí sản phẩm, khiến giá thành tăng và lợi nhuận giảm; bất lợi trong cạnh tranh với phân bón nhập khẩu. Do không được khấu trừ thuế GTGT đầu vào nên không khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất phân bón đầu tư, mua sắm, sửa chữa, nâng cấp tài sản cố định để tạo ra sản phẩm phân bón thế hệ mới, chất lượng cao. Do vậy, trong thời gian qua Bộ Tài chính nhận được kiến nghị của Bộ Công Thương, Hiệp hội phân bón, các doanh nghiệp sản xuất phân bón đề nghị chuyển phân bón sang đối tượng chịu thuế GTGT thuế suất 5%.
Để tháo gỡ khó khăn cho ngành sản xuất phân bón trong nước, Bộ Tài chính đã trình Chính phủ để trình Quốc hội dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về thuế suất thuế giá trị gia tăng đối với phân bón theo đó đề nghị chuyển phân bón từ đối tượng không chịu thuế GTGT sang đối tượng chịu thuế GTGT 5% (Tờ trình số 570/TTr-CP ngày 29/10/2020 của Chính phủ).
Ngày 04/5/2021, Tổng Thư ký Quốc hội có Thông báo số 4357/TB-TTKQH thông báo kết luận của Ủy ban thường vụ Quốc hội tại phiên họp thứ 55, tháng 4/2021, Quốc hội khóa XIV, tại điểm 2 Thông báo về nội dung thuế suất thuế GTGT đối với mặt hàng phân bón như sau: “Đề nghị nghiên cứu, đưa vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV để sửa đổi tổng thể các luật về thuế nhằm bảo đảm đồng bộ, thống nhất và theo đúng chiến lược cải cách về thuế. Trường hợp thật cần thiết Ủy ban thường vụ Quốc hội sẽ xem xét báo cáo Quốc hội theo đúng quy định của pháp luật".
Hiện nay, thực hiện Quyết định số 2114/QĐ-TTg ngày 16/12/2021 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch thực hiện Kết luận số 19-KL/TW ngày 14/10/2021 của Bộ Chính trị và Đề án định hướng Chương trình xây dựng pháp luật nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV, Bộ Tài chính đang thực hiện nghiên cứu, rà soát, đánh giá các luật thuế, trong đó có Luật thuế GTGT để báo cáo Chính phủ, Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét sửa đổi, bổ sung vào thời điểm thích hợp đảm bảo phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của Việt Nam, đảm bảo tính thống nhất của hệ thống chính sách thuế và phù hợp với Chiến lược cải cách hệ thống thuế đến năm 2030 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 508/QĐ-TTg ngày 23/4/2022 cũng như thông lệ quốc tế.
Căn cứ Kế hoạch số 81/KH-UBTVQH15 ngày 05/11/2021 của Ủy ban thường vụ Quốc hội triển khai thực hiện Kết luận số 19-KL/TW của Bộ Chính trị và Đề án định hướng Chương trình xây dựng pháp luật nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV: Chính phủ cần nghiên cứu, rà soát các Luật thuế: giá trị gia tăng, tiêu thụ đặc biệt, thu nhập doanh nghiệp báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội trước ngày 30/06/2022. Thực hiện theo Kế hoạch số 81/KH-UBTVQH15, Bộ Tài chính hiện đang hoàn thiện Báo cáo nghiên cứu rà soát Luật thuế giá trị gia tăng, trong đó có nội dung sửa đổi chính sách thuế giá trị gia tăng đối với mặt hàng phân bón để báo cáo Ủy ban thường vụ Quốc hội.
- Về chính sách thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu:
Căn cứ quy định của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu số 107/2016/QH13, tại khoản 4 Điều 4 Nghị định số 122/2016/NĐ-CP ngày 01/9/2016 của Chính phủ về Biểu thuế xuất khẩu, Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi, Danh mục hàng hóa và mức thuế tuyệt đối, thuế hỗn hợp, thuế nhập khẩu ngoài hạn ngạch thuế quan quy định mặt hàng phân bón nếu có giá trị tài nguyên khoáng sản cộng chi phí năng lượng dưới 51% giá thành sản phẩm có thuế suất thuế xuất khẩu là 0%; Đối với mặt hàng phân bón nếu có giá trị tài nguyên khoáng sản cộng chi phí năng lượng chiếm từ 51% giá thành sản phẩm trở lên có thuế suất thuế xuất khẩu 5%.
Trong thời gian gần đây, giá cả các nguyên liệu sản xuất phân bón trên thị trường thế giới và trong nước liên tục tăng. Theo đó, để góp phần hạ giá phân bón trong nước, ổn định nguồn cung, đồng thời, tạo điều kiện thuận lợi, đảm bảo quản lý chặt chẽ, tránh gian lận trong quá trình thực hiện, căn cứ khung thuế suất quy định tại Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 107/2016/QH13, Bộ Tài chính đã có công văn số 3662/BTC-CST ngày 21/4/2022 gửi xin ý kiến các bộ, ngành, địa phương, Hiệp hội, doanh nghiệp về dự thảo Nghị định của Chính phủ về Biểu thuế xuất khẩu, biểu thuế nhập khẩu ưu đãi (dự thảo Nghị định), trong đó dự kiến trình Chính phủ quy định thống nhất một mức thuế suất thuế xuất khẩu là 5% đối với mặt hàng phân bón. Hiện nay, Bộ Tài chính đang tổng hợp ý kiến các đơn vị và trình Chính phủ trong thời gian tới theo đúng quy trình của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Câu 6: Hiện nay, trên địa bàn tỉnh Bình Định còn khoảng trên 5.000 hộ gia đình người có công, thân nhân liệt sỹ thuộc các đối tượng: là người dân tộc thiểu số, cao tuổi, có hoàn cảnh khó khăn, thuộc vùng thường xuyên xảy ra thiên tai mà nhà ở có nguy cơ sụp đổ, không an toàn khi sử dụng cần được hỗ trợ cải thiện về nhà ở theo quy định tại điểm d Khoản 6 Điều 102 Nghị định số 131/2021/NĐ-CP (gồm có khoảng trên 2.819 trường hợp cần xây mới và khoảng 2.183 trường hợp cần sửa chữa, cải tạo về nhà ở). Cử tri kiến nghị Chính phủ xem xét hỗ trợ kinh phí cho địa phương để sớm thực hiện chính sách hỗ trợ về nhà ở cho các đối tượng trên; đồng thời, nâng mức hỗ trợ xây mới nhà ở thấp nhất là 50.000.000 đồng/hộ và mức hỗ trợ sửa chữa, cải tạo nhà ở thấp nhất là 30.000.000 đồng/hộ (Trong đó, mức hỗ trợ từ nguồn ngân sách Trung ương là 90%; hỗ trợ từ nguồn ngân sách tỉnh là 10%) (Kiến nghị của cử tri huyện Phù Mỳ và tại buổi tiếp xúc với UBMTTQVN tỉnh).
Nội dung trả lời tại Văn bản số 5687/BTC-NSNN ngày 15/6/2022 của Bộ Tài chính như sau:
Ngày 08/9/2021, Bộ Xây dựng đã có Văn bản số 3634/BXD-QLN trình Thủ tướng Chính phủ về báo cáo tổng kết chính sách hỗ trợ người có công với cách mạng về nhà ở theo Quyết định số 22/2013/QĐ-TTg. Ngày 25/10/2021, Bộ Tài chính đã có Văn bản số 12148/BTC-NSNN gửi Văn phòng Chính phủ tham gia về báo cáo tổng kết chính sách hỗ trợ người có công với cách mạng về nhà ở theo Quyết định số 22/2013/QĐ-TTg.
Trên cơ sở đề nghị của Bộ Xây dựng và ý kiến của Bộ: Tư pháp, Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính, Lao động - Thương binh và Xã hội, Phó Thủ tướng Lê Văn Thành đã có ý kiến tại Văn bản số 8622/VPCP-CN ngày 24/11/2021 của Văn phòng Chính phủ: “Đồng ý với kiến nghị của Bộ Xây dựng về việc xây dựng chính sách hỗ trợ cải thiện nhà ở đối với người có công với cách mạng và thân nhân liệt sĩ giai đoạn 2021-2025; giao Bộ Xây dựng chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, các cơ quan liên quan và các địa phương, xây dựng Đề án hỗ trợ cải thiện nhà ở đối với người có công với cách mạng và thân nhân liệt sĩ giai đoạn 2021-2025, xác định rõ phạm vi, nội dung, đối tượng hưởng, chế độ hỗ trợ, nguyên tắc hỗ trợ và mức hỗ trợ cho các địa phương, đảm bảo tổng mức vốn thực hiện Đề án nằm trong tổng mức vốn kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025 được cấp có thẩm quyền quyết định, báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.”
Vì vậy, đề nghị Tỉnh làm việc cụ thể với Bộ Xây dựng, Bộ Tài chính sẽ phối hợp trong quá trình xây dựng Đề án hỗ trợ cải thiện nhà ở đối với người có công với cách mạng và thân nhân liệt sĩ giai đoạn 2021-2025.
Nội dung trả lời tại Văn bản số 2746/BXD-QLN ngày 22/7/2022 của Bộ Xây dựng như sau:
Ngày 09/12/2020, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng số 02/2020/UBTVQH14.
Ngày 30/12/2021, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 131/2021/NĐ-CP quy định chi tiết và biện pháp thi hành Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng (có hiệu lực từ ngày 15/02/2022). Theo đó, tại điểm a Khoản 7 Điều 182 Nghị định số 131/2021/NĐ-CP quy định: Bộ Xây dựng có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, cơ quan liên quan xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành mức hỗ trợ xây dựng mới hoặc cải tạo, sửa chữa nhà ở và tỷ lệ phân bổ vốn hỗ trợ từ ngân sách trung ương, tỷ lệ đối ứng vốn hỗ trợ từ ngân sách địa phương quy định tại khoản 2 Điều 102 Nghị định này đảm bảo phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước.
Thực hiện nhiệm vụ được giao, Bộ Xây dựng đã có văn bản số 420/BXD-QLN ngày 15/02/2022 và văn bản số 1287/BXD-QLN ngày 18/4/2022 đề nghị Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương báo cáo số liệu các hộ gia đình người có công với cách mạng cần hỗ trợ cải thiện nhà ở, đồng thời đề xuất mức hỗ trợ bằng tiền đối với trường hợp xây mới nhà ở và trường hợp sửa chữa, cải tạo nhà ở.
Trên cơ sở báo cáo số liệu và đề xuất của Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (trong đó có tỉnh Bình Định), Bộ Xây dựng đã có văn bản số 2507/BXD-QLN ngày 11/7/2022 (kèm theo dự thảo Tờ trình Thủ tướng Chính phủ và dự thảo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về mức hỗ trợ xây dựng mới hoặc cải tạo, sửa chữa nhà ở đối với người có công với cách mạng, thân nhân liệt sĩ và tỷ lệ phân bổ vốn hỗ trợ từ ngân sách Trung ương, tỷ lệ đối ứng vốn hỗ trợ từ ngân sách địa phương) gửi lấy ý kiến góp ý của các Bộ ngành, cơ quan, tổ chức có liên quan. Theo đó, dự thảo dự kiến mức hỗ trợ 60 triệu đồng/hộ đối với trường hợp xây mới nhà ở hoặc 30 triệu đồng/hộ đối với trường hợp cải tạo, sửa chữa nhà ở (mức hỗ trợ cao hơn mức hỗ trợ của Quyết định số 22/2013/QĐ- TTg ngày 26/4/2013 của Thủ tướng Chính phủ về hỗ trợ nhà ở đối với người có công với cách mạng). Về tỷ lệ phân bổ vốn hỗ trợ từ ngân sách trung ương và tỷ lệ đối ứng vốn hỗ trợ từ ngân sách địa phương sẽ chủ yếu căn cứ theo quy định của Quyết định số 127/2022/QĐ-TTg ngày 24/01/2022 của Thủ tướng Chính phủ về nguyên tắc hỗ trợ có mục tiêu từ ngân sách Trung ương cho ngân sách địa phương thực hiện các chính sách an sinh xã hội do Trung ương ban hành giai đoạn 2022 -2025 để thực hiện.
Sau khi có ý kiến góp ý của các Bộ ngành, cơ quan, tổ chức có liên quan, Bộ Xây dựng sẽ tiếp thu, giải trình báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định mức hỗ trợ và tỷ lệ phân bổ vốn hỗ trợ từ ngân sách Trung ương, tỷ lệ đối ứng vốn hỗ trợ từ ngân sách địa phương trong Quý IV/2022 để triển khai thực hiện.
Câu 7: Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030 (giai đoạn I: từ năm 2021-2025) và Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021-2025 đã được Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1719/QĐ-TTg ngày 14/10/2021 và Quyết định số 263/QĐ-TTg ngày 22/02/2022. Nhưng đến nay, ngân sách Trung ương chưa bố trí kinh phí cho ngân sách địa phương để triển khai thực hiện. Cử tri kiến nghị Trung ương sớm phân bổ kinh phí cho địa phương để thực hiện các Chương trình mục tiêu quốc gia nói trên kịp thời, hiệu quả (Kiến nghị tại buổi tiếp xúc với UBMTTQVN tỉnh và các tổ chức thành viên).
Nội dung trả lời tại Văn bản số 5687/BTC-NSNN ngày 15/6/2022 của Bộ Tài chính như sau:
Ngày 22/5/2022, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 517/NQ-UBTVQH15 về việc phân bổ ngân sách trung ương giai đoạn 2021-2025 và năm 2022 cho các bộ, cơ quan trung ương và địa phương thực hiện 03 chương trình mục tiêu quốc gia, trong đó có 02 chương trình nêu trên.
Ngày 28/5/2022, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 652/QĐ-TTg về việc giao kế hoạch vốn đầu tư phát triển nguồn ngân sách trung ương giai đoạn 2021-2025 cho các địa phương thực hiện 03 chương trình mục tiêu quốc gia và Quyết định số 653/QĐ-TTg về việc giao dự toán ngân sách trung ương năm 2022 thực hiện 03 chương trình mục tiêu quốc gia; trong đó, năm 2022 tỉnh Bình Định được hỗ trợ là 442.757 triệu đồng (vốn đầu tư là 305.055 triệu đồng; vốn sự nghiệp là 137.702 triệu đồng), gồm: Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi là 147.056 triệu đồng (vốn đầu tư là 84.116 triệu đồng; vốn sự nghiệp là 62.940 triệu đồng); Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững là 129.241 triệu đồng (vốn đầu tư là 84.449 triệu đồng; vốn sự nghiệp là 44.792 triệu đồng); Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới là 166.460 triệu đồng (vốn đầu tư là 136.490 triệu đồng; vốn sự nghiệp là 29.970 triệu đồng).
Đề nghị Tỉnh chủ động bố trí ngân sách địa phương, nguồn tài chính hợp pháp khác, cùng với nguồn hỗ trợ của ngân sách trung ương để thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia theo quy định.
Câu 8: Ngày 28/12/2016, Bộ Tài chính ban hành Thông tư số 337/2016/TT-BTC quy định mức chi hoạt động giám sát, phản biện xã hội của MTTQ và các tổ chức chính trị xã hội. Tại Điều 5 của Thông tư quy định mức chi thực hiện theo quy định của Thông tư số 97/2010/TT-BTC ngày 06/7/2010 của Bộ Tài chính, theo đó mức chi được áp dụng đến nay đã hơn 10 năm, không còn phù hợp với thực tế. Cử tri đề nghị Bộ Tài chính quan tâm, xem xét, sớm điều chỉnh tăng mức chi tương xứng, đảm bảo cho hoạt động giám sát và phản biện xã hội được thuận lợi, hiệu quả (Kiến nghị tại buổi tiếp xúc với UBMTTQVN tỉnh và các tổ chức thành viên).
Nội dung trả lời tại Văn bản số 5687/BTC-NSNN ngày 15/6/2022 của Bộ Tài chính như sau:
- Thông tư số 337/2016/TT-BTC ngày 28/12/2016 của Bộ Tài chính quy định về lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí bảo đảm cho hoạt động giám sát, phản biện xã hội của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, trong đó các nội dung chi (tổ chức hội nghị, công tác phí) được dẫn chiếu áp dụng theo quy định tại Thông tư số 97/2010/TT-BTC ngày 06/7/2010 của Bộ Tài chính về công tác phí, tổ chức hội nghị trong nước.
Đến nay, Thông tư số 97/2010/TT-BTC đã được thay thế bởi Thông tư số 40/2017/TT-BTC ngày 28/4/2017 của Bộ Tài chính quy định chế độ công tác phí, chế độ chi hội nghị. Như vậy, các mức chi đã được điều chỉnh tăng để bảo đảm thuận lợi cho các công tác, hoạt động có sử dụng nguồn ngân sách nhà nước.
- Ngày 12/10/2021, Văn phòng Chính phủ có hông báo số 265/TB-VPCP thông báo ý kiến của Thủ tướng Chính phủ tại cuộc làm việc giữa Thường trực Chính phủ và Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam về kết quả phối hợp công tác giai đoạn 2016-2020, 8 tháng đầu năm 2021 và trọng tâm công tác phối hợp trong thời gian tới; trong đó tại Điểm 5 Phụ lục kèm theo Thông báo số 265/TB-VPCP thuộc thẩm quyền, trách nhiệm xử lý của Bộ Tài chính: “Về đề nghị sửa đổi Thông tư số 337/2016/TT-BTC ngày 28 tháng 12 năm 2016 của Bộ Tài chính quy định về lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí bảo đảm hoạt động giám sát, phản biện xã hội của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội cho phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ hiện nay, đồng thời đảm bảo thống nhất, đồng bộ với cơ chế, điều kiện hoạt động giám sát của các cơ quan khác trong hệ thống chính trị.”
Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tài chính có Văn bản số 12641/BTC-HCSN ngày 04/11/2021 gửi Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; đối với đề nghị sửa đổi Thông tư số 337/2016/TT-BTC: Đề nghị Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tổng kết, đánh giá tình hình thực hiện các chính sách, chế độ này trong thời gian qua; nêu rõ khó khăn, vướng mắc và đề xuất nội dung cần sửa đổi, bổ sung phù hợp tình hình thực tiễn và Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 21/5/2018 Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành trung ương Khóa XII về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động trong doanh nghiệp gửi Bộ Tài chính để nghiên cứu, báo cáo cấp có thẩm quyền theo quy định.
Ngày 18/4/2022, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ban hành Kế hoạch số 538/KH-MTTW-BTT về khảo sát, đề xuất sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách về tài chính của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp, với mục đích đánh giá thực trạng thực hiện quy định về tài chính trong hệ thống Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, phát hiện những khó khăn, vướng mắc, bất cập trong quá trình thực hiện Thông tư số 337/2016/TT-BTC.
Trên cở sở đề xuất của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Bộ Tài chính sẽ nghiên cứu, phối hợp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam để sửa đổi Thông tư số 337/2016/TT-BTC bảo đảm phù hợp với các quy định của pháp luật và thực tế thực hiện của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội các cấp.
Câu 9: Trong thời gian qua, theo nhu cầu ca các đơn vị Trung ương trên đa bàn tỉnh, địa phương đã giao đất đxây dng trslàm việc mới và các đơn vTrung ương cũng thống nht sau khi xây dng xong trụ smới sbàn giao li trscũ cho địa phương quản lý, sdụng. Tuy nhiên đến nay, một số cơ quan Trung ương đã về làm việc tại các trụ sở mới (Tòa án nhân dân huyện Tây Sơn, Tòa án nhân dân huyện Tuy Phước[1], Bảo hiểm xã hội thị xã An Nhơn[2], Cc Hải quan tỉnh Bình Định, Chi cc Kiểm tra sau thông quan[3]), UBND tỉnh Bình Định đã có văn bản báo cáo và đề nghị các cơ quan có thẩm quyền ở Trung ương quan tâm xem xét, chuyển giao nhà và đất của các trụ sở cũ về địa phương để quản lý, sử dụng nhưng chưa được giải quyết. Cử tri kiến nghị các bộ, ngành liên quan phối hợp, xem xét, chuyển giao lại các trụ sở làm việc cũ để địa phương quản lý, sử dụng, bố trí cho các cơ quan, đơn vị của địa phương đang thiếu trụ sở làm việc, tránh gây lãng phí tài sản công (Kiến nghị của cử tri huyện Tây Sơn, thị xã An Nhơn và tại buổi tiếp xúc với UMTTQVN tỉnh).
Nội dung trả lời tại Văn bản số 5687/BTC-NSNN ngày 15/6/2022 của Bộ Tài chính như sau:
- Về trụ sở của Tòa án nhân dân huyện Tây Sơn, Tòa án nhân dân huyện Tuy Phước:
Bộ Tài chính đã có Văn bản số 4754/BTC-QLCS ngày 27/5/2022 đề nghị Tòa án nhân dân tối cao rà soát, lập phương án sắp xếp lại, xử lý đối với trụ sở làm việc (cũ và mới) của Tòa án nhân dân huyện Tuy Phước, Tòa án nhân dân huyện Tây Sơn theo quy định tại Nghị định số 167/2017/NĐ-CP ngày 31/12/2017 của Chính phủ quy định việc sắp xếp lại, xử lý tài sản công, Nghị định số 67/2021/NĐ-CP ngày 15/7/2021 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 167/2017/NĐ-CP đảm bảo việc quản lý, sử dụng tài sản tiết kiệm, hiệu quả và đúng quy định của pháp luật.
- Về trụ sở của Bảo hiểm Xã hội thị xã An Nhơn:
Ngày 25/5/2021, Bảo hiểm Xã hội tỉnh Bình Định có Văn bản số 806/BHXH-KHTC đề nghị Bảo hiểm Xã hội Việt Nam bàn giao trụ sở làm việc cũ trên cho địa phương.
Đến nay, Bảo hiểm Xã hội Việt Nam chưa có phương án sắp xếp, xử lý cơ sở nhà, đất trên gửi Bộ Tài chính. Vì vậy, Bộ Tài chính chưa có cơ sở xem xét, xử lý theo quy định của Nghị định số 167/2017/NĐ-CP, Nghị định số 67/2021/NĐ-CP của Chính phủ.
- Về trụ sở của Cục Hải quan tỉnh Bình Định, Chi cục Kiểm tra sau thông quan:
Thực hiện Nghị định số 167/2017/NĐ-CP ngày 31/12/2017 và Nghị định số 67/2021/NĐ-CP ngày 15/7/2021 của Chính phủ; trên cơ sở đề nghị của Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Định, Bộ Tài chính đã yêu cầu Tổng cục Hải quan và soát, có văn bản báo cáo theo quy trình quy định tại Nghị định số 167/2017/NĐCP và Nghị định số 67/2021/NĐ-CP. Trên cơ sở báo cáo của Tổng cục Hải quan và ý kiến của Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Định, Bộ Tài chính đã phê duyệt phương án chuyển giao về địa phương quản lý, xử lý đối với 02 cơ sở nhà, đất là trụ sở cũ của Cục Hải quan tỉnh Bình Định, Chi cục Kiểm tra sau thông quan theo đúng quy định tại Nghị định số 167/2017/NĐ-CP và Nghị định số 67/2021/NĐ-CP.
Câu 10: Hiện nay, một số Hợp tác xã nông nghiệp trên địa bàn tỉnh đã chuyển từ hình thức được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc giao đất không thu tiền sử dụng đất sang hình thức Nhà nước cho thuê đất. Nhưng thời gian thực hiện sau ngày 01 tháng 7 năm 2014 nên không được hưởng chính sách ưu đãi tiền thuê đất theo quy định tại Nghị định 46/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định về thu tiền thuê đất, thuê mặt nước và Nghị định số 135/2016/NĐ-CP ngày 09/9/2016 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định quy định về thu tiền sử dụng đất, thu tiền thuê đất, thuế mặt nước. Cử tri kiến nghị Bộ Tài chính kiến nghị Chính phủ xem xét cho các đối tượng này được hưởng chính sách ưu đãi tiền thuê đất theo quy định tại Nghị định 46/2014/NĐ-CP và Nghị định số 135/2016/NĐ-CP, vì hiện nay hoạt động của các Hợp tác xã nông nghiệp này còn gặp nhiều khó khăn (Kiến nghị của cử tri xã Nhơn Thọ, thị xã An Nhơn).
Nội dung trả lời tại Văn bản số 5687/BTC-NSNN ngày 15/6/2022 của Bộ Tài chính như sau:
Hiện nay, ưu đãi về miễn, giảm tiền thuê đất đối với hợp tác xã nông nghiệp được thực hiện theo quy định tại Nghị định số 46/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ về thu tiền thuê đất, thuê mặt nước (được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 135/2016/NĐ-CP ngày 09/9/2016, Nghị định số 123/2017/NĐ-CP ngày 14/11/2017 của Chính phủ). Theo đó, tại khoản 6 Điều 19, khoản 16, 17 Điều 31 Nghị định số 46/2014/NĐ-CP (được bổ sung tại khoản 8 Điều 3 Nghị định số 135/2016/NĐ-CP) quy định: Người thuê đất, thuê mặt nước chỉ được hưởng ưu đãi miễn, giảm tiền thuê đất, thuê mặt nước sau khi làm các thủ tục để được miễn, giảm theo quy định; đồng thời có quy định xử lý chuyển tiếp đối với trường hợp được Nhà nước cho thuê đất trước ngày 01/7/2014 nhưng sau ngày 01/7/2014 mới nộp hồ sơ đề nghị miễn tiền thuê đất “Trường hợp được Nhà nước cho thuê đất trước ngày 01 tháng 7 năm 2014 nhưng sau ngày 01 tháng 7 năm 2014 mới nộp hồ sơ đề nghị miễn tiền thuê đất trong thời gian xây dựng cơ bản thì được miễn tiền thuê đất trong thời gian xây dựng cơ bản tối đa không quá 03 năm kể từ ngày có Quyết định thuê đất hoặc thời điểm được bàn giao đất thực tế; người thuê đất phải nộp hồ sơ đề nghị miễn tiền thuê đất trong thời gian xây dựng cơ bản cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền để làm thủ tục miễn, giảm trước ngày 01 tháng 01 năm 2017, quá thời hạn này người thuê đất mới nộp hồ sơ đề nghị miễn tiền thuê đất thì chỉ được xét miễn tiền thuê đất cho thời gian còn lại (nếu có) tính từ thời điểm nộp hồ sơ theo quy định. Trường hợp đã nộp tiền thuê đất trong khoảng thời gian được miễn tiền thuê đất thì được trừ vào số tiền thuê đất phải nộp của những năm tiếp theo”.
Vì vậy, đề nghị Hợp tác xã nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Bình Định liên hệ với các cơ quan có thẩm quyền tại địa phương để xác định từng trường hợp cụ thể để thực hiện theo đúng quy định của pháp luật.
 
[1] Trụ sở làm việc cũ của Tòa án nhân dân huyện Tây Sơn (địa chỉ số 85, đường Phan Đình Phùng, thị trấn Phú Phong) và Tòa án nhân dân huyện Tuy Phước (địa chỉ số 67, đường Đào Tấn, thị trấn Tuy Phước) hiện đang dôi dư. UBND tỉnh Bình Định đã có Văn bản số 5478/UBND-KT ngày 14/8/2020 kính đề nghị Bộ Tài chính, Tòa án nhân dân tối cao chuyển giao về địa phương.
[2] Bảo hiểm xã hội thị xã An Nhơn đã được BHXH Việt Nam đầu tư xây dựng trụ sở mới và đưa vào sử dụng từ ngày 30/12/2020, hiện trụ sở cũ tại địa chỉ số 77 Lê Hồng Phong, phường Bình Định, thị xã An Nhơn đang để trống.
[3] Trslàm việc cũ ca Cc Hải quan tỉnh Bình Định (đa chs70 Trn ng Đo, thành phQuy Nhơn) và Chi cc Kiểm tra sau thông quan (đa chs264 Trần ng Đo, thành phQuy Nhơn) hin i dư, UBND tnh Bình Đnh đã có các Văn bản s1598/UBND-KT ngày 25/3/2021, s6724/UBND- TH ngày 25/10/2021 kính đnghị Bộ Tài chính xem xét, chuyển giao vđa phương

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây